Thích Tuệ Sỹ - Thích Hạnh Viên

NHỚ THƠ THẦY ĐÊM 30 TẾT

NHỚ THƠ THẦY ĐÊM 30 TẾT

Ở chùa, chúng tôi thường không có những ngày tết rộn rã vui vầy bên người thân như ngoài đời; đó chỉ là những ngày bình thường như mọi ngày, và nếu không nhập thất, chúng tôi thường đóng cửa xin tạ khách; chúng tôi không “ăn” tết, mà “gặm nhắm” tết với thời gian lặng lẽ đi qua.

Nhà đạo, nguyên không khách

Quanh năm bạn ánh đèn

Thẹn tình Trăng liếc trộm

Bẽn lẽn núp sau rèm.

Yêu nhau từ vạn kiếp

Nhìn nhau một thoáng qua

Nhà đạo, nguyên không nói

Trăng buồn trăng đi xa.

Nhưng ai cũng có thể có một cái tết mà ấn tượng của nó đi theo mình nhiều năm tháng trong đời, và tôi cũng vậy.

Cuối năm 1975, gần tết, mẹ tôi giục tôi ra Nha Trang tìm thăm Thầy đã bị mất liên lạc từ hơn nửa năm qua. Ngày 29 tết tôi đến Nha Trang, hăm hở đi thẳng về cái thất quen thuộc của thầy trên đồi Trại Thủy. Cảnh đìu hiu quạnh vắng; tìm quanh, tôi gặp được thầy Phước An là người duy nhất còn ở lại đó. Thầy bất ngờ: P đó hả?! May quá còn ra được đây. Ở nhà mọi người đều bình yên ha? Thầy cho biết, sau những ngày biến động tháng 4, Phật học viện đóng cửa, thầy tôi về Soi Đê, Vạn Giã ẩn cư nơi một miếng rẫy ven rừng. Thầy Phước An bảo: Thôi ăn cơm rồi nghỉ ngơi, sáng mai tui đưa em ra bến xe đi “Giã”.

Sáng hôm sau ở bến xe thầy chỉ đường: ‘Em nhớ nói tài xế cho xuống xe ở cây số…, hỏi đến chùa… vô tìm thầy trụ trì Đồng Tu, nói ra thăm thầy Tuệ Sỹ, ổng sẽ dẫn em đi’. Thầy Phước An mua cho tôi cái vé xe, dặn đi dặn lại ‘nhớ xuống ở cây số…, quên là nó chạy tuốt ra Phú Yên, mấy ngày tết không có xe vào đâu’. Xe chạy khoảng 3 tiếng, ngang thị trấn Vạn giả thì dừng thả tôi xuống trơ trọi giữa đường quốc lộ. Tôi, cậu bé Saigon 18 tuổi, trưa 30 tết còn lang thang ngoài đường tìm nhà quen. Sau này mỗi khi nhớ lại, tôi thấy tuổi trẻ sao đẹp quá, việc gì thích là làm, không hề lo ngại gì cả; nhỡ không tìm được người, tối đó tôi đón giao thừa, “ăn” tết ở đâu? Trong túi lúc đó có không quá số tiền xe về lại Sài gòn. Trời không phụ lòng người (liều), tôi hỏi đường tìm đến chùa dễ dàng, vào gặp thầy trụ trì. Thầy trố mắt nhìn người khách nhỏ không mời mà đến giữa lúc năm cùng tháng tận này. Thầy hối tôi ăn cơm, rồi không nghỉ trưa, thầy lấy xe đạp chở tôi vào rẫy. Chạy quanh co qua xóm làng một đỗi, thầy ghé vào một nhà dân gởi chiếc xe; cúi xuống xắn hai ống quần lên, thầy bảo tôi: ‘từ đây vô đường ruộng, mình đi bộ nhe, còn khoảng 2 cây số thôi, em cẩn thận đường trơn’. Tôi cứ dạ dạ gật đầu, cắm cúi đi theo thầy.

Sau mấy lần “lên bờ xuống ruộng” mà thầy Đồng Tu phải đứng lại chờ, cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi. Thầy tôi đứng trước cái chòi tranh gương mặt nửa vui nửa kinh ngạc: sau những loạn lạc không biết ai còn ai mất vừa qua, lại gặp nhau giữa khung cảnh và thời khắc bất ngờ này. Thầy Đồng Tu “bàn giao” tôi lại rồi vội vã ra về, thầy bảo: Về cho kịp chuẩn bị tối cúng Giao thừa.

Thầy tôi ở trong căn chòi vách đất mỗi bề tầm 3 mét, có em Phật tử ở chùa tình nguyện đi theo lo cơm nước, phụ việc rẫy. Sát sau chòi là con suối nhỏ, bên kia suối là mãnh vườn tươm tất trồng các luống cải, cà tím, cà dĩa, cà pháo v.v… lác đác xen giữa các luống rau là những gốc cây rừng khai hoang chưa kịp mục, trơ vơ trong bóng chiều như dáng người ngồi lom khom. Xa cuối vườn tiếp giáp dãy lùm bụi lờ mờ dẫn vào rừng, xa hơn nữa, dãy Trường sơn trãi bóng im lìm nơi biên địa.

Dẫn tôi đi xem rẫy, vui miệng, thầy tôi kể: Hèn chi hồi sáng thấy con chim khách đậu sau vườn kêu, đuổi thử nó không bay, thấy lạ bẻ nắm lá gieo quẻ rồi nhẫm tính: có khách đường xa. Nghĩ chắc quẻ sai rồi, 30 tết ai khách đường xa mà đến đây.

Chiều xuống ba thầy trò quây quần ngồi uống trà ngoài sân, hỏi nhau đủ thứ chuyện. Tôi đem ra cái máy cassette nhỏ chạy pin mà tôi cất công mang theo, mở những bài hát thịnh hành lúc đó của Simon & Garfunkel để ‘chiêu đãi thầy’. Ông nói, đúng là ‘cậu Năm Sàigòn!’ (tôi thứ 5 trong gia đình). Tiếng nhạc mỏng manh của băng cassette lan nhẹ trong chiều, tiếng hát buồn của hai chàng ca sĩ trời Tây trong El condor Pasa nghe thiết tha, không chõi nhịp giữa khung cảnh núi rừng này.

Away, I’d rather sail away. Like a swan, that’s here and gone.

A man gets tied up to the ground. He gives the world Its saddest sound, Its saddest sound.

I’d rather be a forest than a street. Yes I would. If I could, I surely woud…

Thầy khen hay, nói tụi Mỹ cũng lãng mạn dữ!

Trời dần tối, se lạnh, thầy bảo vô nhà. Núi rừng Soi Đê không ai dám ở ngoài trời ban đêm. Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận. Chẳng những vô nhà mà còn phải tấn cửa cài then cẩn thận. Em thanh niên dặn: tối anh có đi tiểu đừng ra ngoài nhe, cứ ở trong nhà, cọp thỉnh thoảng về bắt trộm trâu bò của dân tộc bên kia rừng. Tôi nhìn căn chòi nhỏ bé, một góc chòi là cái bếp dưới đất luôn đỏ lửa, vừa sưởi ấm ban đêm vừa để thú hoang sợ không dám đến. Nhìn cái bếp, tôi biết ngay đây là chỗ thầy ngồi những đêm khuya lạnh gió

Ai biết mình tóc trắng

Vì yêu ngọn lửa tàn

Rừng khuya bên bếp lạnh

Ngồi đợi gió sang canh.

Biết tôi vừa đi cả ngày đường, thầy kêu tôi ngủ sớm. Nằm trên phản tôi nghe thầy giải nghĩa mấy câu Phật pháp cho em thanh niên, sau đó hai thầy trò đánh cờ tướng. Tôi thiếp dần với tiếng pháo nổ lốp đốp từ xa, nghe rời rạc. Đêm đó tôi ngủ thật ngon, mơ màng với hình ảnh cái bếp lửa trong nhà, những hàng cà phơi nắng lụa…

Ta biết mi bọ rùa

Gặm nhắm tàn dãy bí

Ta vì đời thiệt hơn

Khổ nhọc mòn tâm trí

Ta biết mi là dế

Cắn đứt chân cà non

Ta vì đời đổ lệ

Nên phong kín nỗi hờn

Ta biết mi là giun

Chui dưới tầng đất thắm

Ta vì đời thiệt hơn

Đêm nằm mơ tóc trắng.

Ba mươi tuổi, cái tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tự thấy mình có đủ tài năng cho những hoài bão lớn lao, đã phải gác lại hết, xa chùa lên rừng cuốc đất mưu sinh, hàng ngày cuốc đất trồng rau mà nghe như cuốc chôn đi những ước mơ phụng sự của mình. Nên nói chuyện với giun dế mà lời u uẩn mấy tầng tâm sự.

Yêu em dâng cả ráng chiều thu

Em đốt tình yêu bằng hận thù

Cháy đỏ mùa đông ta vẫn lạnh

Giấc mơ không kín dãy song tù.

Nhà văn Viên Linh còn giữ được mấy bài thơ lưu lạc mà khi đọc, ông lo ngại nói với tác giả: coi chừng thầy chết yểu, nghe trong thơ như có chứng lao phổi bên trong.

Hai mươi năm u hoài

Trong tiếng gà lạc loài

Từng cơn ho rũ rượi

Những đoạn đường lưu đày.

            *

Cơn ho lại kéo dài

Cỗ xe đang rệu rã

Còn một chút gì đây

Sâu con ôm cuống lá.

            *

Nửa đêm chợt giấc, rũ cơn ho

Mây trắng bồng bềnh trôi đáy hồ

Xa lắm, sông dài từ thuở ấy

Bóng người lữ khách tựa cây khô.

Đó là cái Tết mà, không hiểu sao, đến tận giờ tôi vẫn nhớ từng chi tiết. Tôi nhớ cái chòi tranh xiêu vẹo, nhớ cây Mai rừng bên suối, chỉ điểm chấm vài bông hoa mà kiêu kỳ sang trọng, vươn nghiên bên suối nhỏ như thách thức cả đại ngàn. Những cánh hoa nhỏ lấp lánh vàng rực dưới nắng mai. Đó là cây Mai đẹp nhứt tôi từng thấy, nhìn nó tôi chợt hiểu vì sao Nguyễn Du nói Mai cốt cách, tuyết tinh thần…

Tôi thuộc lòng những bài thơ của thầy mà tôi ít khi đọc tới trong gần 50 năm qua. Gần 50 năm trôi qua, những người gắn liền với cái tết năm ấy không còn, chỉ còn tôi và những bài thơ thầy để lại. 50 năm nữa biết chúng có còn không?

Một trăm năm mưa nắng ra gì!Cánh phượng đỏ đầu hè, ai nhặt?

Những bài thơ này tôi sẽ không đọc không ngâm, mà ngày Tết tôi sẽ lật lại từng trang để nhìn chúng, như nhìn những người bạn, mà tôi biết chúng sẽ kể tôi nghe nhiều câu chuyện về thầy…

Xa rồi sóng bạc vỗ ghềnh cao

Suối nhỏ còn không? Đêm nhuộm màu

Một cõi Vĩnh hằng thu giọt nắng,

Nghe tình du tử chợt xôn xao.

Hạnh Viên

Trích Giấc mơ Trường sơn, thơ Tuệ Sỹ*


* thơ Tuệ Sỹ, Hương Tích xuất bản: Giấc mơ Trường sơn; bản Anh ngữ Dreaming the mountain bởi Nguyễn Bá Chung & Martha Collins ấn hành tại Hoa Kỳ; Những điệp khúc cho dương cầm, song ngữ Việt Pháp bởi Dominique De Miscault; Thiên lý độc hành, 5 ngôn ngữ  Việt, Nôm, Nhật, Anh, Pháp; Ngục trung mỵ ngữ, thơ chữ Hán dịch Việt, Anh, Nhật; và các bài thất lạc rải rác…

Viết bình luận:

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *