THỨC ĂN ĐỂ TỒN TẠI

THỨC ĂN ĐỂ TỒN TẠI

TLHT. TUỆ SỸ (Pháp thoại)

Một hôm, Thế Tôn ôm bát vào thành khất thực. Bấy giờ, có một Ni-kiền Tử, tu theo phép khổ hạnh, nhịn đói, gặp Thế Tôn ở cổng thành, hỏi: “Giáo lý của Ngài có gì đặc biệt?” Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều tồn tại do thức ăn.” Ni-kiền Tử nghe thế, bèn nói: “Điều đó thì trẻ nhỏ cũng biết, có gì là cao siêu?”

Ăn để mà sống, tất nhiên là sự thực tầm thường. Từ sinh vật hạ đẳng nhất, chỉ tồn tại với một quan năng duy nhất là ý chí tồn tại, trong từng khoảnh khắc cũng phải khổ nhọc tìm kiếm thức ăn để duy trì sự sống. Loài người, để tồn tại như mong muốn, cũng phải không ngớt tìm kiếm và tích lũy tài nguyên trong thiên nhiên làm thức ăn cho tồn tại ngày nay và ngày mai. Từ tích lũy mà phải cạnh tranh. Do cạnh tranh mà xung đột lẫn nhau, gây khổ cho nhau, cho mọi sinh vật khác. Đó cũng là sự thực tầm thường.

Ăn để mà sống. Sống là một quá trình chuyển biến để trở thành một cái khác, hoặc thấp hơn hoặc cao hơn. Quá trình ấy luôn luôn cần năng lượng để vận chuyển. Các sinh vật thấp hơn chỉ nhu cầu một loại năng lượng vật chất. Loài người, sinh vật cao cấp, nhu cầu nhiều hình thái năng lượng khác nhau. Nếu có sinh vật cao hơn loài người, như các sinh vật tồn tại trên các Thiên đường của các tôn giáo, tất nhiên có nhu cầu các loại thức ăn hay năng lượng khác với những gì đang được loài người tích lũy và dung nạp. Do suy đoán và tưởng tượng, một số đông cho rằng các chúng sinh trên các cõi Thiên đường cần những thức ăn như vậy, cho nên ngay từ bây giờ, ta phải tích lũy những thứ như vậy. Những thứ tích lũy ấy sẽ làm hài lòng đấng Tối Cao ngự trị trên Thiên giới; do vậy những ai sở hữu những cái đó sẽ được nhận vào Thiên quốc. Nếu đấng Tối Cao ngự trị trên đó do bởi thịnh nộ mà muốn hủy diệt những thứ hay những loài mà Ngài cho là làm trái ý mình, thì những ai muốn sinh lên đó phải giết, phải thiêu, phải hủy diệt sinh vật khác, như là hành vi tích lũy tài sản để sau này có thể trao đổi với thức ăn tồn tại trên Thiên quốc.

Vậy, những loại thức ăn để tồn tại đó là những thứ gì?

Nói đến thức ăn hay thực phẩm, thì nó bao gồm hai phần: vật chất và tinh thần. Sự tu tập được xem như là món ăn tinh thần. Đa số chúng ta thường hiểu món ăn tinh thần như sự giải trí, nên cho rằng nó có cũng được, không có cũng được. Nhưng nhớ rằng, tất cả chúng sanh tồn tại là nhờ vào thức ăn, nghĩa là không có thức ăn thì chúng sanh không phát triển được, song nếu chỉ được ăn thức ăn vật chất thôi thì sự phát triển của chúng sanh chỉ trong phạm vi nào đó, như trẻ con nếu chỉ được ăn những thức ăn như cơm, cháo mà không có những thức ăn khác, như không có xúc chạm, không được thương yêu, không được giáo dục, v.v… thì đứa trẻ đó sẽ bị còi cọt, v.v… ngay cả như nuôi mèo chó, người ta cũng không chỉ cho nó thức ăn mà còn phải vuốt ve nó nữa. Vì vậy, để phát triển toàn diện, chúng sanh ngoài thực phẩm vật chất, tất nhiên còn cần phải có những thực phẩm khác. Những thực phẩm khác đó là gì sẽ được giải thích sau. Bây giờ, trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về tính chất của thực phẩm (āhāra).

Āhāra trong Pāli cũng thường dùng với nghĩa là duyên, giống như điều kiện. Duyên là điều kiện; āhāra hay thực phẩm, thức ăn cũng vậy, nó là điều kiện để duy trì sự sống và phát triển sự sống. Nói một cách phổ thông, nó là dưỡng chất để duy trì và phát triển sự sống. Như vậy, thực phẩm phải mang tính chất trưởng dưỡng, vì trưởng dưỡng là duy trì và nuôi lớn; là trưởng dưỡng phát ích (các căn), trưởng dưỡng tăng ích (các căn) hay là tích lũy và làm tăng thêm lên. Trong từ “trưởng dưỡng”, chúng ta nên thêm vào từ “tăng ích” nữa cho rõ nghĩa tức là “trưởng dưỡng và tăng ích”. Còn các căn ở đây là năm căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

Trưởng dưỡng có hai ý nghĩa trên hai phương diện:

– Thứ nhất, trưởng dưỡng là duy trì sự sống và phát triển sự sống (trưởng dưỡng và tăng ích), giống như mình ăn nhiều chất bổ thì càng ngày càng khỏe hơn và mập lên; đây là phương diện tích cực.

– Thứ hai, trưởng dưỡng là không tổn hại, tức không tạo ra những tác hại chất gây nguy hiểm cho các căn; đây là phương diện tiêu cực. Thí dụ, hằng ngày, chúng ta vẫn ăn đều đặn, không thêm không bớt gì cả, khối lượng hay trọng lượng của cơ thể cũng không tăng, nghĩa là thực phẩm mà chúng ta ăn vào không có tính tăng ích nhưng cũng không gây tổn hại, không gây ra nguy hiểm cho sự sống. Nếu như trọng lượng giảm dần theo sự ăn hằng ngày, lúc bấy giờ thức ăn ấy là món độc hại, không những không tăng ích mà còn tổn hại, thì những thực phẩm đó không có trưởng dưỡng tức không duy trì cũng không nuôi lớn. Trong tính chất của thực phẩm, chúng ta chỉ nói đến ý nghĩa tích cực của trưởng dưỡng mà thôi.

Ta hãy nói đến sự sống bắt đầu từ côn trùng, bò bay máy cựa, cho đến thiên thần cõi Phi tưởng Phi phi tưởng, tất cả đều cần phải có dưỡng chất mới tồn tại và phát triển. Nói cách khác, chúng ta gọi là nạp năng lượng để tồn tại. Không một sinh vật nào tồn tại mà không nạp năng lượng (dưỡng chất), cũng như không một hệ thống máy móc nào không nạp năng lượng mà có thể vận hành được.

Vấn đề thực phẩm này, trong chuỗi lý luận, nó phải đi sau phần chứng minh sự tồn tại của danh sắc. Bởi vì, trước hết có thân rồi mới cần đến sự ăn để nuôi thân. Chỉ duy có thân, phần tồn tại vật chất, chưa đủ để cấu tạo thành sự sống. Nói chung, vật chất và tinh thần, hay thân và tâm, là những khái niệm cơ bản để hiểu sự sống là gì. Trong Kinh gọi đó là danh và sắc. Vậy, danh sắc hình thành và tồn tại như thế nào?

Đời sống hiện tại là sự tiếp nối của đời sống quá khứ. Yếu tố hình thành đời sống hiện tại ngay trong sát-na thứ nhất được gọi là kết sanh tương tục. Nó nối liền hai đời sống quá khứ và hiện tại. Kết sanh tương tục là tổ hợp gồm ba chi phần: cha, mẹ và nghiệp cảm đời trước. Thiếu một trong ba chi phần trên thì sát-na tương tục không thể kết thành.

Từ tử tâm, trạng thái hay sát-na cuối cùng của một đời sống, đến khi tái sanh trở lại, quá trình này diễn ra như thế nào để trở thành kết sanh tương tục? Điều cần thừa nhận ở đây là tất cả hành vi chúng sanh làm trong đời này, được thúc đẩy bởi động lực là ý chí, được tích lũy trong nội thân hay nội tâm, vẫn tồn tại cho đến khi hội đủ điều kiện cần thiết được xử lý để trở thành một cái khác. Những hành vi hay động tác của thân và miệng trong quá trình tạo nghiệp là quá trình vận động và chuyển biến của khối năng lượng, mà thuật ngữ Duy thức học gọi là công năng chủng tử, được điều động bởi động lực ý chí (tư tâm sở). Khi sự tạo tác nghiệp đến giai đoạn quyết định, thí dụ trong trường hợp tạo nghiệp sát khi đối tượng bị giết đã chết, khối công năng chủng tử ấy được định hình và được tích lũy trong nội tâm. Đó là sự tồn tại của nghiệp sau khi đã được thực hiện. Nếu chưa hội đủ điều kiện, khối nghiệp tích lũy đó không được xử lý thì nó chưa thể phát sanh tác dụng; tức là nghiệp chưa trở thành dị thục.

Dị thục là gì? Nghĩa đen, đó là sự nấu chín. Thí dụ, thóc được xử lý để nấu chín thành cơm. Quá trình xử lý ấy bao gồm việc gặt hái, xay giã, vo, nấu, với các yếu tố nước, lửa, v.v… Sau khi đã xử lý thành cơm, tồn tại của thóc được tích lũy trong kho bấy giờ được thấy là biến mất, nhưng không mất hẳn, mà là biến thái để trở thành cái khác. Từ cái khác này mà về sau qua nhiều lần xử lý và biến thái nữa, để rồi trở thành yếu tố cấu thành sự xuất hiện của hạt lúa mới. Đó là quá trình lưu chuyển hay luân hồi trong trạng thái vật chất. Nhưng nghiệp được tạo tác không thuần túy vật chất, mà được điều động bởi ý chí; cho nên nghiệp được tích lũy như hạt giống tồn tại gồm cả sắc và tâm, mà thuật ngữ gọi là sắc tâm chủng tử. Cả hai là hai thực thể cá biệt, nhưng tồn tại bất khả phân, là hai lực tương tác không thể phân ly nhau, hợp thành một chỉnh thể thống nhất, làm căn bản cho sự sống hiện tại và tương lai. Nói tóm lại, danh hay yếu tố tinh thần, nguyên lý tâm, tồn tại y trên sắc; và do lực tương tác, sắc tồn tại được duy trì bởi tâm.

Khi sắc bị tan rã, nghĩa là khi chết, khối nghiệp được tích lũy mất đi phần sở y vật chất. Nhưng vì nó chưa được xử lý để trở thành cái khác nên nó vẫn tồn tại như một khối chưa tan rã theo sắc. Ngay lúc vừa mất chân đứng đó, mà ở một nơi nào đó đang phát sanh sự kết hợp của sắc, nếu sự kết hợp này tương thích với khối nghiệp tích lũy, bấy giờ nghiệp được hấp dẫn về phía đó, và gá ngay lên đó mà tồn tại. Sự kết hợp này, trong giới thai sinh, như loài người, là tinh huyết của cha mẹ. Như vậy, tinh cha, huyết mẹ và nghiệp cảm quá khứ, đó là ba yếu tố cấu tạo thành sự sống đầu tiên của sinh vật. Yếu tố đó là một tổ hợp danh sắc. Danh sắc, ngay sát-na đầu tiên, là kết quả của yếu tố quá khứ, kết hợp với các yếu tố hiện tại. Quá trình kết hợp như vậy, ta gọi là quá trình xử lý, và được hiểu theo thuật ngữ Phật giáo là dị thục, tức là quá trình nấu chín.

Như vậy, khi ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) này rã và tiếp tục qua đời sống khác thì cái phần nghiệp tức phần thọ, tưởng, hành, thức (bốn uẩn này tồn tại dưới dạng nghiệp) quá khứ sau khi rã ra rồi phát sinh cái mới thì cái mới này lại bắt đầu tìm chỗ khác để gá vào, khi gá vào cái mới thì ngay lúc đó (sát-na thứ nhất kết sanh tương tục) nó trở thành dị thục, nghĩa là gạo bây giờ đã trở thành cơm. Dị thục này có hai khả năng: chấp trì và chấp thọ. Và ngay sát-na thứ nhất dị thục định hướng liền, tức là khi gá vào chỗ mới là nghiệp cảm định hướng luôn.

Có bao nhiêu định hướng? Thứ nhất là định hướng thú sinh, nghĩa là tùy theo chuỗi gien (gien cha, gien mẹ) của loài nào thì dị thục trở thành loài đó; gien đen thì dị thục thành đen; gien người, gien cọp, gien sư tử, gien trâu, gien bò, v.v… thì dị thục định hướng thành người, thành cọp, sư tử hay trâu, bò, v.v… Dị thục giống như mũi tên được bắn ra theo một định hướng nào đó. Sau khi định hướng thú sinh rồi, dị thục định luôn cả tuổi thọ tức thời gian tồn tại của dị thục. Dị thục này là chân dị thục, chân dị thục lúc này chưa phát triển, chưa có tay chân, các thứ. Trong sát-na thứ nhất của kết sanh tương tục, là giai đoạn đã trở thành chân dị thục rồi, từ cái dị thục này mới bắt đầu phát triển… Qua sát-na thứ hai, chân dị thục này phát triển thành danh sắc. Danh sắc lúc này chỉ là một khối vật chất, với hai chức năng: chấp trì và chấp thọ. Do lực dị thục phóng ra mà nó được chấp trì. Nói khác, dị thục duy trì sự tồn tại cái khối đó để phát triển thành các căn, tức là cái kết sanh đó duy trì làm cho chuỗi ADN nó không bị hủy, khi duy trì như vậy nó biến thái liền, và hai cái chuỗi đó bây giờ trở thành sự sống tức là có chấp thọ.

Nhưng làm thế nào để phát triển danh sắc này? Khi thành một sinh vật qua đời sống mới thì tất cả yếu tố dị thục đã có rồi, nhưng đức Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại”. Vậy thì từ sát-na thứ nhất trở đi đều phải có thức ăn, tức từ sinh hữu cho đến tử hữu phải có thức ăn, rồi sau đó vẫn phải có thức ăn nhưng ở đây lấy một giai đoạn tồn tại này thôi còn giai đoạn khác chưa nói đến. Tóm lại, từ sát-na thứ nhất kết thành sự sống cho đến sát-na cuối cùng tử hữu tức là chết, chúng sanh phải luôn luôn nạp năng lượng, nạp thức ăn, không lúc nào là không nạp năng lượng. Cho nên sát-na thứ nhất, kết sanh thức nó nạp năng lượng gì để phát triển thành sát-na thứ hai là danh sắc, rồi danh sắc nạp năng lượng gì nữa tức là những dưỡng chất để từ đó phát triển thành mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chân, v.v… chứ không thể tự nó phát triển; mà phải có nạp từ bên ngoài. Điều này chúng ta thấy rõ như con nít (trong bào thai) phát triển thì phải ăn những dưỡng chất. Nó hấp thu những dưỡng chất của bà mẹ ăn vào. Tất nhiên là dưỡng chất có mặt tăng ích và mặt tổn hại; nếu không tổn hại là trưởng dưỡng, nếu tổn hại thì nguy hiểm. Người mẹ nếu nạp thứ tổn hại thì cái thai sẽ bị hủy. Cho nên thực phẩm được định nghĩa một cách tổng quát là tất cả thức ăn, và thức ăn thì đều có tăng ích và tổn hại.

Tăng ích và tổn hại đối với sinh mệnh của một sinh vật là hướng tiến hóa hay thoái hóa của nó trên các cấp bậc tồn tại. Trong thế giới quan Phật giáo, cấp bậc tồn tại được phân chia theo trình độ cảm thọ lạc. Cảm thọ lạc là trạng thái điều hòa khi diễn ra sự tiếp xúc giữa nội thân tâm và ngoại cảnh. Ăn là quá trình dung nạp thực phẩm, cũng là quá trình tiếp xúc giữa nội giới và ngoại giới của một sinh vật. Sự tiếp xúc diễn ra với trạng thái điều hòa, bấy giờ cảm thọ phát sinh.

Vậy, những loại thực phẩm nào trưởng dưỡng, đưa đến trạng thái điều hòa giữa nội giới và ngoại giới, là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của sinh vật trong nấc thang tiến hóa? Khế kinh nói: “Có bốn loại thực phẩm”:

1. Đoàn thực hay đoạn thực

2. Xúc thực

3. Ý tư thực

4. Thức thực

Bốn loại thực phẩm này chỉ cần thiết cho các chúng sanh từ Dục giới đến các cõi trời. Các bậc Thánh giả A-na-hàm chưa vào vô dư Niết-bàn vẫn cần thức ăn.

Trong quá trình tiến hóa của loài vật, có loài chỉ cần đoạn thực là thức ăn duy nhất. Tiến lên một bậc nữa là xúc thực, ngoài thức ăn vật chất còn có thức ăn cảm xúc. Lấy giai đoạn một đời người mà tính thì từ khi bắt đầu thọ thai, thai nhi đã cần thức ăn (đoạn thực), luôn luôn cần bồi dưỡng thức ăn. Và thức ăn nào cũng cần sự tiêu hóa, nghĩa là thực phẩm sau khi được dung nạp phải qua một quá trình chuyển hóa thì mới thành thức ăn thật sự.

Tùy trình độ phát triển của từng bậc mà thực phẩm được chia thành bốn loại như trên. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu đặc điểm tính chất của từng loại thực phẩm.

1- ĐOÀN THỰC hay ĐOẠN THỰC

Đoàn thực: Tiếng Skt. là kavaḍīkāra āhāraḥ (Pāli: kabaliṅkāra). Chữ đoàn có nghĩa là vo tròn lại (Skt. kavaḍīkāra = kavaḍiṃ karoti). Gọi là đoàn thực vì ở Ấn-độ có cái tục ăn bốc, thường vo tròn thức ăn lại rồi bốc ăn, nên các vị ngày xưa mới dùng hình tượng ăn bốc để chỉ chung cho tất cả thức ăn vật chất. Ngay cả nước thường là uống bằng ly nhưng nước dưới sông cũng có thể vốc vào tay rồi uống; do vậy, nói thức ăn (thực phẩm) là bao gồm cả thức uống. Nhưng nghĩa này cụ thể quá, và cũng có thể người Hoa xem sự ăn bốc là phong tục man di, nên ngài Huyền Trang đổi lại là đoạn thực.

Đoạn là phần đoạn. Đoạn thực: Thức ăn phần đoạn, là chỉ loại thức ăn (kể cả nước) có thể chia thành từng phần nhỏ rời rạc khi dung nạp vào cơ thể.

Nói chung, đoàn thực hay đoạn thực là loại thực phẩm vật chất bao gồm cả bốn đại chủng; tạo thành loại thức ăn này là ba thứ: hương, vị và xúc. Xúc, được dung nạp qua xúc giác; hương, được dung nạp qua khứu giác; và vị, được dung nạp qua vị giác. Cả ba yếu tố này, sau khi được dung nạp, phải trải qua một quá trình chuyển hóa mới trở thành dưỡng chất làm năng lượng duy trì và tiến hóa của sự sống. Tất cả chúng sanh trong Dục giới, và kể cả chư Thiên cho tới cõi địa ngục đều cần có đoạn thực. Trong sự tiến hóa của sinh vật, có loài chỉ có đoạn thực là thức ăn duy nhất. Cơ bản nhất, từ loại động vật nhỏ bé, một phần lớn là dùng thức ăn loại đoạn thực. Lấy giai đoạn một đời người mà tính, từ khi bắt đầu thọ thai thì thai nhi đã cần thức ăn, luôn luôn cần bồi dưỡng thức ăn để duy trì và phát triển sự sống.

Đoàn thực có hai loại: thô và tế. Thô là thức ăn, thức uống. Tế là tắm rửa, áo quần, che chắn… Nhưng thô tế còn tùy theo loại, đối với loại này là thô nhưng lại là tế đối với loại kia; đối với chúng ta, cơm, gạo là thô; nước và những cái khác là tế; đó là tính cách tương đối của thô tế. Ở đây, chúng ta không bàn luận về tính chất thô tế của thực phẩm mà chỉ chú trọng bản chất của nó thôi.

Vậy, cái bản chất này là gì? Chính là yếu tố tạo thành đoạn thực. Cơm, nước, thực phẩm, gạo… không thể gọi là đoạn thực, chưa thể gọi là đoạn thực, vì sao? Vì cái gì mà trưởng dưỡng và tăng ích các căn, thì cái đó mới được gọi là thực phẩm (dưỡng chất);đây là định nghĩa của A-tì-đàm theo ý nghĩa tuyệt đối.Cơ bản là như vậy, nhưng chúng ta phải biết cái tính chất gì hay yếu tố vật chất nào làm cho cơm, cháo… trở thành dưỡng chất. Như trên đã nói thực phẩm vật chất (đoạn thực) mà cơ bản là xúc, hương và vị được nạp thọ bởi ba căn: xúc căn, tỷ căn và thiệt căn.

Yếu tố thứ nhất của đoạn thực: Xúc, là cái được nạp thọ bởi thân. Chúng ta nhớ rằng trong 11 xúc, cơ bản nhất là đói và khát. Đói là muốn ăn, khát là muốn uống (định nghĩa của Câu-xá). Xúc này là tùy xúc chạm, cái được xúc chạm, nó là thụ động. Hai yếu tố còn lại là hương và vị. Hương tức mùi hương. Hương đây là tăng ích rồi vì hương thường là mùi thơm chứ mùi thối thì không thể ngửi được; song cũng không chính xác lắm, vì thuốc có mùi thối uống vào cũng trị lành bệnh nên cũng là thực phẩm. Thứ nữa là vị, thực phẩm có 6 vị. Tổ hợp xúc, hương và vị trong 11 xúc, 4 hương và 6 vị này tạo thành thức ăn để duy trì và phát triển sự sống. Do đó, khi chúng ta ăn vào những thứ như cơm, ớt, cà chua, cà ri…, kể cả uống nước, thì những thứ mà căn nạp thọ không phải là gạo, là ớt, là cà chua… mà là 3 yếu tố: xúc, hương và vị.

Thật ra cả ba yếu tố xúc, hương và vị cùng được nạp thọ một lần nhưlà một tổ hợp, nhưng để cho dễ hiểu nên chúng ta phân tích thành xúc riêng, hương riêng và vị riêng. Cụ thể, khi chúng ta đưa thực phẩm vào miệng (thân căn), thì lưỡi là phần thứ nhất của thân căn được xúc chạm, đụng chạm với thức ăn, khi đó mình có cảm xúc là cứng hay mềm, nóng hay lạnh… đó gọi là xúc, lại cũng có cảm giác mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt…, đó là vị đồng thời; đồng thời cũng cảm nhận được mùi của nó là thơm hay thối, khó ngửi hay dễ chịu… đó là hương đồng thời.

Ba thứ: xúc, hương và vị sau khi được dung nạp phải được biến hoạithì khi đó mới trở thành dưỡng chất (thực phẩm thật sự). Biến hoại ở đây không phải là tiêu hoại theo nghĩa vô thường mà là tiêu hóa, gọi là metabolism.Nghĩa là, thực phẩm sau khi được dạ dày hấp thu sẽ kết hợp với một chất gì đó trong cơ thể rồi trải qua một quá trình chuyển hóa mới trở thành dưỡng chất thật sự để duy trì và nuôi lớn sự sống, nếu không tiêu hóa được thì không phải là thực phẩm thực sự vì nó không những không trưởng dưỡng và tăng ích các căn mà có khi còn gây tác hại. Ví như chúng ta ăn trái chuối ba ngày sau vẫn không tiêu hóa được, thì sẽ cảm thấy khó chịu, thậm chí còn bị bệnh nữa. Vậy, trái chuối tuy có nhiều chất bổ dưỡng nhưng trường hợp này không thể gọi là thức ăn được, vì nó không tiêu biến được để thành dưỡng chất. Do vậy, chúng ta sau khi ăn tuy cảm thấy hết đói, hết khát nhưng thực phẩm đó cũng chưa chắc trở thành dưỡng chất, nếu nó không được tiêu biến.

Cần lưu ý, xúc của đoạn thực chỉ là xúc của thân căn thôi. Do vậy, sắc xứ không phải là đoạn thực.

Sắc xứ là gì? Sắc xứ tức 6 nội xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thí dụ về sắc xứ giống như con mắt nhìn thức ăn mà tự căn của nó không được trưởng dưỡng; còn nếu nhìn thức ăn mà được trưởng dưỡng thì đó là xúc, chứ không phải là đoạn thực. Các cõi từ Sơ thiền trở lên có xúc nhưng không có hương và vị, tức là không có khứu giác và vị giác; mặc dù chúng sanh ở đó vẫn có mũi và lưỡi nhưng chỉ là hình thức để trang trí cho đẹp chứ không có tác dụng gì cả, mà cái gì không có tác dụng thực tế thì xem như không tồn tại, cho nên trong các cõi này hương và vị không có, vì khi biến hoại sắc xứ không có tác dụng nữa. Nghĩa là, con mắt nhìn sắc, thì sắc vẫn là sắc chứ nó không biến thành thứ khác, không thể biến hoại, không thể tiêu biến để trở thành dưỡng chất. Còn chúng ta ăn trái cà, củ khoai v.v… thì cà, khoai… biến thành cái gì đó (dưỡng chất) chứ không còn là cà hay khoai… nữa.

Vậy, đặc tính cơ bản của đoạn thực là biến hoại. Nghĩa là, ba thứ xúc, hương và vị sau khi được dung nạp phải được tiêu biến (metabolism) thì khi đó mới trở thành dưỡng chất (thực phẩm thật sự). Còn sắc xứ, tuy xúc, hương và vị cũng là sắc nhưng nó thuộc sắc uẩn, không thể biến hoại được, nên không có tác dụng; Vì lý do này, sắc xứ không phải là đoạn thực. Điều này có nghĩa là đoạn thực chỉ có trong Dục giới mà thôi, còn từ Sắc giới trở lên không có đoạn thực nữa.

2- XÚC THỰC

Xúc thực: Thức ăn do tiếp xúc, do xúc chạm. Hình thái của xúc là tiếp xúc ngoại cảnh tức căn và cảnh tiếp xúc nhau.

Xúc cảnh như thế nào? Như con mắt nhìn sự vật là căn tiếp xúc với cảnh. Phật dạy, khi đủ căn, cảnh thì bao giờ cũng có thức khởi lên và tạo thành xúc.Vậy, xúc là một tổ hợp gồm ba yếu tố căn-cảnh-thức (threefold conbination).

Căn-cảnh-thức hoạt động luôn luôn tích lũy. Tất cả các loại thực đều do tích lũy, bản chất sự vật là như vậy. Nhưng sự tích lũy cũng có giới hạn của nó; hơn nữa vật chất có sanh diệt, nên nó duy trì một thời gian ngắn rồi hủy, do vậy, phải bồi dưỡng cái khác. Xúc thực cũng vậy, vì cũng thuộc vật chất, nhưng xúc thực tích lũy mang tính cách thường gọi là tích lũy kinh nghiệm, nghĩa là, khi căn-cảnh tiếp xúc nhau thì có nhận thức tức thức khởi lên liền tạo thành xúc.

Tất cả chúng sanh từ Dục giới cho đến Vô sắc giới tồn tại đều có xúc thực. Xúc có hai loại: xúc hữu lậu và xúc vô lậu. Phàm phu, khi con mắt nhìn cảnh thì nhãn thức khởi lên, và tạo thành tổ hợp xúc; đây là xúc hữu lậu, nhưng với một vị A-la-hán thì tổ hợp xúc này là xúc vô lậu.

Thức nào khởi lên cũng đều có xúc cả, vì sao? Vì xúc là một trong những tâm sở biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Thức khởi lên lúc nào cũng có những tâm sở này; cho nên hễ có thức thì có xúc và thức luôn luôn cần có xúc. Ngay cả a-lại-da thức cũng cần có xúc để tồn tại, vì có xúc thì thức mới hoạt động được. Xúc luôn luôn đồng hành với thức hay nói cách khác xúc là biến hành của thức, và xúc thực rất cần thiết cho sự duy trì và phát triển các căn.

Thai nhi chỉ có thân xúc và ý xúc, còn các xúc kia chưa có vì các căn chưa phát triển đầy đủ. Thân xúc của thai nhi là những điều kiện bảo vệ của người mẹ. Nghĩa là người mẹ phải giữ nhiệt độ nóng, lạnh điều hòa, phải ăn uống những chất bổ dưỡng… thì thai nhi sẽ phát triển tốt; đây là xúc thuận ích. Nếu điều kiện bảo vệ (thân xúc) này thiếu hay không điều hòa hoặc người mẹ bị va chạm mạnh thì thai nhi sẽ không trưởng thành hoặc sẽ bị hủy; đây là xúc tổn hại.Ngay cả thai nhi trong ống nghiệm cũng cần sự bảo vệ này.

Tuy các căn chưa phát triển đầy đủ nhưng thai nhi cũng có ý xúc, vì ý lúc này chính là ý tiềm tàng từ trong chủng tử phát khởi, nó gồm có hai phần: thức mạt-na và thức thứ sáu. Thức thứ sáu dựa trên thân thức. Như vậy, khối vật chất danh sắc tồn tại tối thiểu bốn thức: thức a-lại-da (thức thứ tám), thức mạt-na (thức thứ bảy), thức thứ sáu (ý thức) và thân thức. Nói chung, khối vật chất danh sắc chứa đựng ba tầng hoạt động của thức. Tầng sâu nhất là thức thứ tám, tầng trung gian là thức thứ bảy, tầng ngoài cùng là thức thứ sáu và năm thức trước. Chính xúc thực đã làm cho các tầng thức này phát triển. Sự phát triển này là đối với tất cả chúng sanh từ Dục giới cho tới Vô sắc giới. Đối với thai nhi chỉ có sự xúc chạm là những điều kiện bảo vệ, cho đến khi phát triển đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi… Sau khi sinh ra rồi, các căn đều cần có xúc, bấy giờ tự nó xúc (xúc chạm) lấy để phát triển.

Giai đoạn phát triển của khối vật chất chỉ có sáu xúc vì sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý phải luôn luôn có xúc mới tồn tại và phát triển, nên chủ yếu chỉ nói sáu xúc; còn nếu tính cả chu kỳ phát triển của sự sống thì cần cả tám xúc. Khi vào đến những tầng tận cùng của Diệt tận định vẫn cần có xúc để tồn tại, tức là trong trạng thái định này, thọ không còn, cái gì cũng không còn nữa mà chỉ còn thức (ở đây gọi xúc là nói theo kinh điển). Nghĩa là, khi lên đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, ý thức vẫn còn nên xúc còn, nhưng ở hai tầng: Diệt tận định và Vô tưởng định vì ý thức không khởi lên được nên xúc cũng không; do vậy, hai trạng thái thiền định này không được nuôi dưỡng bằng xúc thực.

Nói rộng, bất cứ cái gì cũng cần có xúc để phát triển, như cây cối cũng cần sự xúc chạm của nhiệt độ ấm, nóng hay âm nhạc… để phát triển, nhưng sự phát triển này không thuộc loại chấp thọ đại chủng, mà xúc này là sự tích lũy trong trạng thái quan hệ hòa hiệp của các pháp. Các pháp hòa hiệp nhau thì phát triển tồn tại, nếu nghịch nhau thì nó rã ra; đây là sự tụ và tán của quy luật tồn tại, chứ không phải là xúc thực. Còn xúc trong căn, cảnh, thức mới là xúc thực. Chẳng hạn, con mắt nhìn cảnh vật thì cảnh sắc đập vào con mắt không phải là đoạn thực mà là xúc thực. Tức là khi nhìn vật chất con mắt sẽ được phát triển. Nếu mắt không nhìn cảnh (sắc) tức căn-cảnh không hợp thì thức không khởi, thức không khởi thì xúc không có, xúc không có (không có thức ăn) thì căn con mắt sẽ bị thoái hóa và từ từ bị hủy.

Căn-cảnh-thức hiệp lại tạo thành xúc. Xúc đưa tới thọ. Thọ là cảm giác. Trong thọ có khổ thọ, lạc thọ và xả thọ (phi khổ phi lạc thọ). Xả thì gồm hai phần: xả bình thường gọi là xả thuận ích và xả tổn hại tức là không khổ không lạc. Thật ra, xả không có cảm thọ là khổ hay lạc, nhưng không đưa đến tổn hại nên cũng là xả tăng ích; cho nên xúc có hai loại là thuận ích xúc và tổn hại xúc.

Lạc thọ là cảm giác thoải mái, đưa tới sự phát triển, gọi là tăng ích thọ và xúc đưa tới sự phát triển là thuận ích xúc, tức là xúc làm cho vật chất hài hòa. Khổ thọ là trạng thái khó chịu, luôn gây tổn hại, làm cho các căn va chạm nhau rồi dẫn đến tan rã. Khổ này không nhất thiết đến mức than khóc kêu gào mà là trạng thái bất như ý. Trạng thái khổ thọ thật ra là trạng thái không điều hòa giữa vật chất và tinh thần, tức trạng thái mất quân bình không cân bằng giữa căn, cảnh, thức khi tiếp xúc với nhau. Trạng thái không cân bằng này tạo ra sự thoái hóa, ban đầu các căn (phần vật chất) bị hỏng nhiều hay ít còn tùy theo, hoặc có thể bị hỏng cả toàn thân. Khi chúng ta ăn phải chất độc (đoạn thực) thì cơ thể sẽ phản ứng làm chúng ta khó chịu ói mửa hay bị ngộ độc; đây gọi là ngộ độc thức ăn. Con mắt cũng có sự ngộ độc nhưng vì nó bị ảnh hưởng tác hại bên trong, không nhìn thấy, nên chúng ta không hiểu.

Ví dụ, chúng ta nhìn bóng tối hay chỉ nhìn màu sắc nào đó quá nhiều, lâu dần nhãn căn bị thoái hóa, thị lực sẽ giảm dần; đó là xúc thực đưa tới khổ thọ mà nguyên nhân là do căn-cảnh-thức không điều hòa. Ngược lại nếu mắt nhìn những màu sắc hài hòa thì nhãn căn phát triển, thị lực ngày càng tinh vi hơn, đó là lạc thọ; lỗ tai cũng vậy. Nhớ rằng, trong bốn loại thực phẩm thì thức ăn của con mắt thuộc loại xúc thực chứ không phải đoạn thực (thức ăn vật chất), vì sao? Vì khi con mắt nhìn sắc, thì sắc này cũng biến hoại nhưng nó không biến hoàn toàn như metabolism, nếu biến hoại như vậy thì mắt sẽ không thấy gì nữa; cho nên sắc căn – sắc xứ: xanh, vàng, đỏ, trắng… không thành thực phẩm như dạng vật chất, mà thành thực phẩm theo dạng xúc. Đây là chỗ cần phân biệt giữa đoạn thực và xúc thực.

Như đã giải thích, thức nào khởi lên cũng đều có xúc cả, a-lại-da thức cũng có xúc. Có tất cả tám xúc, nhưng ý nghĩa thực phẩm (xúc thực) của ý thức nổi bật hơn hết, vì sao? Vì năm thức trước hoạt động có giới hạn. Trong quá trình tiến hóa, từ sơ thiền trở lên năm thức trước bị mất dần, còn thức thứ sáu thì tồn tại trong cả ba cõi, lại nữa, khi tiếp xúc với cảnh thô hiển bên ngoài nó thu nhận cảm thọ hỷ, lạc và xả thuận ích, mà cả ba loại cảm thọ này đều có khả năng duy trì và phát triển, trong khi thức thứ bảy lấy đối tượng là thức thứ tám quá vi tế và thức thứ tám chỉ tương ưng với xả thọ; do tính chất phổ biến trong ba cõi và ý nghĩa dinh dưỡng của thức thứ sáu nổi bật hơn các thức khác nên ý nghĩa thực phẩm (xúc thực) của nó cũng nổi bật hơn cả. Ở đây chỉ nói sáu xúc thôi vì chỉ giới hạn trong ba cõi. Vượt ra khỏi ba cõi lên đến các bực Thánh A-la-hán thì năm thức trước và ý thức không còn nữa chỉ còn thức thứ tám, tức vẫn còn xúc nhưng không phải là xúc thực. Như vậy, xúc thực lên cao nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ – Vô sắc giới, lên một bậc nữa là Diệt tận định thì xúc này không còn.

Vô sắc giới tuy không có con mắt nhưng vẫn còn ý phân biệt, tức là trong cảm thọ của tầng thiền định cao nhất vẫn còn xả thọ, song xả thọ này là thuận ích, tức cảm thọ này đưa đến sự điều hòa làm cho phát triển, mà Vô sắc giới không có sắc nên sự phát triển này là phát triển về ý thức và căn của ý thức.

Cảm thọ lạc đưa đến sự tiến hóa.Giống như người thiền định, thì cảm thọ lạc trong thiền định càng ngày càng tăng, mà lạc thọ của thiền định là một loại thức ăn nuôi dưỡng cơ thể; điều đó giải thích tại sao những người thiền định ba bốn ngày không ăn họ vẫn sống. Nhưng, vật chất có giới hạn, nên cơ thể con người phát triển cao và nặng tới mức nào đó thôi, nếu như phát triển quá mức thì sẽ trở thành bệnh, như bệnh béo phì. Cũng vậy, khi cảm thọ trong thiền định tăng lên sẽ phát triển khả năng duy trì thân thể đó nên không cần ăn mà vẫn tồn tại, đồng thời cảm thọ còn phát sinh thêm một loại khác nữa mà chúng ta không thấy, đó là quan năng của giác quan phát triển đến mức mắt có thể nhìn thấy những vật rất tinh vi mà không cần kính hiển vi; đây là sự khuếch trương căn mà chúng ta gọi là thiên nhãn. Điều này nghe có vẻ huyền bí nhưng trong lý luận chúng ta thấy thích hợp với sự phát triển tự nhiên của quy luật tiến hóa, giống như con vật bốn chân có thể đứng được trên hai chân, chạy nhảy và dần dần có thể bay được.

Hiện tại, chúng ta được nuôi dưỡng chỉ giới hạn duy nhất trong thức ăn vật chất thôi, còn loại xúc thực này đối với chúng ta cũng giống như con nít cho gì ăn nấy chứ không phải tự mình biết chọn lựa thức ăn bổ dưỡng gì cho cơ thể ngày càng được phát triển. Đó là vì chúng ta không tập được những khả năng thiền định nên sự phát triển tai, mắt… của chúng ta chỉ trong giới hạn nào đó thôi mà không thể tiến hóa hơn được nữa.

3- Ý TƯ THỰC

Ý tư thực: Thức ăn bằng ý tư, bằng tư tưởng, ý chí; nói chung gọi là món ăn tinh thần, như giải trí, đọc sách hay niềm tin tôn giáo chẳng hạn, những cái này rất là cần thiết. Và hình thái của nó là hy vọng về sau.

Tư là tư duy, tư tưởng (discomfort hay thinking center). Ý là ý chí (will hay volition). Hai phần này là một phần của ý thức, nó tạo thành hoạt động của ý thức; hoạt động của ý thức có hai phần, tức là vừa có tư duy vừa có ý chí, tiếng Phạn gọi là manascittana. Tư duy thì suy nghĩ những cái trừu tượng liên hệ đến những sự vật trong ba đời. Còn ý chí thì luôn luôn hướng đến tương lai.

Tư là một trong năm biến hành (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư) của tâm sở. Căn, cảnh, thức hiệp lại thì xúc khởi lên rồi các biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng và cuối cùng là tư cũng cùng loạt tiếp nối nhau khởi lên. Tư này tương ưng với ý, là hoạt động liên hệ với ý (ý chí); tư thuộc về ý nên gọi là Ý tư chứ không phải tư niệm. Ý tư là hoạt động của tư tâm sở.

Cơ bản hình thái của tư là hy vọng, là thức hữu lậu cùng hoạt động song hành với dục, nghĩa là tư khởi lên thì dục cũng khởi lên theo. Sự sống phải luôn có hy vọng, không có hy vọng thì không bao giờ có sự sống. Tư là một trong năm tâm sở biến hành, còn dục là tâm sở biệt cảnh. Khi các thức khởi lên đều có năm tâm sở biến hành, rồi tùy theo trường hợp mà một trong năm biệt cảnh cũng khởi lên, có lúc hai biệt cảnh, có lúc ba biệt cảnh, có khi chỉ một biệt cảnh mà thôi, hoặc là cùng một loạt năm biệt cảnh khởi lên. Như vậy khi thức khởi lên, nếu trường hợp tối đa thì có 10 tâm sở: 5 biến hành, 5 biệt cảnh; còn tối thiểu là 6 tâm sở cơ bản: 5 biến hành, 1 biệt cảnh – một biệt cảnh đây là dục, tức là hữu lậu tư cùng hoạt động với dục.Khi khả ái cảnh, để hy vọng cái đối tượng khả ái, thì lúc bấy giờ nó trở thành thực phẩm.

Cần lưu ý, có 2 chữ ‘dục’: chandakāma. Dục ở đây là hy vọng, là ý muốn, tiếng Phạn là chanda, chứ không phải dục kāma: dục vọng, là ái dục tức là dục vọng vật chất, tham muốn dục lạc. Có năm yếu tố tạo thành kāma: sắc (sắc đẹp), thanh (tiếng hay), hương, vị, xúc, và những cái hưởng thụ dục lạc này mang tính hiện tại, vì sắc, thanh, hương, vị, xúc chỉ trong hiện tại mới có tác dụng. Còn dục chanda là hy vọng, khát vọng, là ước muốn (muốn thế này, muốn thế kia)… muốn một sự kiện gì đó xảy ra; thành ra đối tượng của cái dục này là tương lai. Ý tư là khát vọng sinh tồn, là nguồn hy vọng duy trì sự sống, mất hy vọng thì sự sống không còn. Do vậy, ý tư là một loại thức ăn, không có nó thì sự sống không thể tồn tại được, nên gọi là ý tư thực.

Tư hoạt động tức là tâm sở tư khởi lên cùng với ý thức để mong cầu cái gì đó ở tương lai. Khi chúng ta muốn làm việc gì đó trong tương lai, như ăn cắp, ăn trộm, hay bố thí, phóng sanh… thì ý chí, động lực của ý muốn sẽ thúc đẩy hành động khởi lên, lúc đó tư trở thành thực phẩm. Còn tư theo ý nghĩa nhớ lại quá khứ, thì tư này là tư niệm, tức là niệm hoạt động với tư thì niệm tư này không thể trở thành thực phẩm. Khát ái cũng là hy vọng nhưng hy vọng này là muốn tương lai ta sẽ thế này, thế kia; còn hy vọng trong ý tư thực với ý nghĩ rằng trong tương lai ta sẽ sống. Nói cụ thể, hy vọng của ý tư thực là hoạt động trong biến hành của tư tâm sở, còn khát ái mang tính chất phiền não, thuộc về bất thiện tâm sở. Hai cái này, tính chất và bản chất tồn tại của nó khác nhau; điều này hơi phức tạp, chúng ta cần phân biệt rõ.

Tư tuy rằng cùng tương ưng các thức và có sáu tư, tức “lục tư thân”. Sáu thức đều có tư hết và đều có thể làm thức ăn, nhưng nổi bật nhất là tư của thức thứ sáu (ý tư), vì sao? Vì đặc sắc của ý thức là nổi bật trong việc hy vọng, hy vọng một cái cảnh, hy vọng một đối tượng, mong cầu một đối tượng sẽ đến trong tương lai. Còn năm thức trước chỉ hoạt động trong hiện tại không có hy vọng, chỉ có ý thức là hoạt động cả ba thời, thành ra mong cầu đối tượng tương lai là thức thứ sáu, nên dùng chữ ý tư để nhấn mạnh. Nhưng nói đầy đủ thì cả tám thức đều có tư hết vì tư là biến hành nên thức thứ tám cũng có tư, song ở đây chỉ chú trọng ý tư vì kinh điển nguyên thủy chỉ nói có sáu thức; do vậy chỉ nói có sáu tư thôi.

Trong kinh có dẫn một câu chuyện về ý tư thực như sau:

“Trong quá khứ trước thời đức Phật, một gia đình nọ có ba bố con. Gặp lúc trời hạn mất mùa đói kém, người bố lại thất nghiệp không kiếm được việc làm, nhà đã mấy ngày hết gạo, ba bố con không có gì ăn uống cả. Bấy giờ, ông bố lấy một bao cát treo lên trần nhà và nói với hai đứa nhỏ rằng, ‘gạo bố để dành đây, hai con hãy ngồi đợi bố ra ngoài tìm thức ăn, khi về bố sẽ nấu cơm cho các con ăn’; thật ra người bố đi tìm gạo. Hai đứa nhỏ ở nhà cứ nhìn lên bao cát và nghĩ rằng có gạo ở trong đó và chờ bố về lấy xuống nấu cơm, nên chúng cứ hy vọng là sẽ có cơm ăn. Do hy vọng đó mà hai đứa trẻ đã có thể sống được trong khi người bố đi tìm gạo không được và cứ đi mãi. Thời gian sau, không rõ là bao lâu, có người hàng xóm tới (chắc cũng đi tìm thức ăn), hỏi hai đứa nhỏ: ‘Bố các con đi đâu rồi, có gì ăn không?’ Đứa trẻ trả lời: ‘Thưa có gạo, nhưng bố con treo cao quá nên không lấy xuống được’. Người hàng xóm nghe vậy cũng mừng, nghĩ rằng chắc gạo thật nên vội vàng lấy xuống, không ngờ mở bao ra chỉ toàn là cát. Hai đứa trẻ bấy giờ nhìn thấy toàn cát, mất hết hy vọng được ăn cơm liền ngã lăn ra chết”.

Qua câu chuyện trên đây, chúng ta có thể tìm hiểu được trong cuộc sống hằng ngày, có thể suy luận và nhận thấy rằng, ý muốn, hy vọng tuy không trưởng dưỡng, không nuôi lớn sự sống, nhưng ít nhất hy vọng cũng duy trì được sinh mạng trong thời gian nào đó, cho nên hy vọng chính là thức ăn. Hy vọng này không phải là khát ái, mà là một loại tin tưởng, là niềm tin và rất cần thiết cho sự sống.

4- THỨC THỰC.

Thức thực: Thức ăn là thức hay là thức ăn bởi thức, và hình thái của nó là chấp trì.

Chấp trì thế nào? Tức là, cơ thể sau khi dung nạp đoạn thực vào thì thể lực được tăng trưởng làm cho thức (hữu lậu) cũng tăng, tất cả các thức đều được tăng trưởng. Xúc thực, ý tư thực cũng vậy, đều nuôi dưỡng các căn và làm cho thức tăng trưởng, vì sao? Vì đoạn thực, xúc thực và ý tư thực duy trì hiện tượng tồn tại và sự tồn tại này luôn luôn hướng đến tương lai và trong đó các loại xúc thực vừa duy trì cái hiện tượng tồn tại vừa phóng tới tương lai, thành ra làm tăng trưởng thức, mà cơ bản của thức là duy trì, chấp trì cái hiện tại, nên nói thức thực có khả năng chấp trì. Và khi thức tăng trưởng nó trở lại nuôi dưỡng và duy trì năm căn và duy trì cả ý căn luôn, nói chung, thức duy trì cả sáu căn nhưng chỉ nói năm căn, vì năm căn cụ thể; do vậy, thức là thức ăn.

Ngoài ra, Kinh nói: Thức thực là phiền não. Nói chung dòng liên tục của thức là bản ngã, vì có tồn tại ý niệm về bản ngã thì mới duy trì sự sống được, nên thức ăn của thức chính là phiền não, vì nó nuôi dưỡng và làm tăng trưởng chấp thủ. Chấp thủ là gì? Chấp thủ là làm cho hướng đến tương lai và tạo thành một đời sống tương lai; cho nên, thức thực duy trì ái và tất cả các thứ khác để duy trì cái hiện tại và phát triển các thủ trong tương lai nữa; do đó nói thức thực chính là phiền não. Đây là nói theo nghĩa trong kinh, chứ Duy thức không nói thức là phiền não, vì phiền não là tâm sở của thức. Nhưng do phần trên nói tác dụng của thức ăn là biến hoại, là tác dụng của cảnh, còn tác dụng của thức là chấp trì, mà chấp trì cũng chính là chấp thủ, do chữ chấp thủ nên ta gọi thức là phiền não. Chính phiền não chấp thủ mà sự sống được tồn tại, mất phiền não thì sự sống không còn, nó sẽ suy thoái và sẽ mất cho dù vẫn còn trong hiện tại thì tương lai nó cũng sẽ không còn nữa.

Tại sao thức là thực phẩm? Như đã phân tích, thực phẩm gồm hai loại: vật chất và tinh thần. Mà thức ăn tinh thần có nhiều dạng, trong đó, cái nào là thực phẩm, cái nào không là thực phẩm còn tùy theo chỗ mình quy định. Thức ăn tinh thần là dưỡng chất tinh thần. Trong thức ăn tinh thần, ý tư thực là hy vọng, còn những vấn đề như đọc sách, suy nghĩ, nhận thức, tích lũy… những cái nào mà có khả năng duy trì và trưởng dưỡng các căn, cụ thể là sáu căn thì đều là thực phẩm. Ngoài ra, còn có ý nghĩa khác, ở đây chỉ nói ý nghĩa thức duy trì và phát triển sự sống.

Vậy, thức nào là thực phẩm? Tất cả tám thức đều có khả năng duy trì và tăng trưởng các căn nhưng thức thứ tám ý nghĩa thực phẩm ưu thế hơn, vì sao? Vì nó ưu thắng về ba mặt: nhứt loại, tương tục và chấp trì.

Thứ nhất: Nhứt loại, là trước sau đều đồng một loại (dị thục); dị thục này là vô ký. Tức là, từ trước đến sau thức thứ tám vẫn tồn tại một loại đồng nhất, tuy có sinh diệt nhưng dị thục vẫn là dị thục. Thứ hai: tương tục, là hằng tiếp nối liên tục từ đời này qua đời khác không bao giờ gián đoạn, và qua các nơi tức là phổ biến trong ba cõi, cho tới Diệt tận định, Vô tưởng định và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Thứ ba: chấp trì, là khả năng duy trì khối vật chất trong suốt giai đoạn tồn tại và phát triển tức từ khi có danh sắc là có chấp thọ rồi phát triển thành các căn: tay, chân, tai, mắt, mũi, lưỡi… cho tới khi nó bị hủy đi, nghĩa là thức thứ tám duy trì sự sống (thân mạng) khiến không bị tan rã, không bị gián đoạn trong suốt thời gian tồn tại và phát triển của danh sắc.

Sự sống ở đây là sự sống của một hữu tình chứ không phải là sự sống của cây cỏ. Mặc dù, cây cối cũng có đời sống của nó, nhưng sự sống của cây cối là sự kết hợp hài hòa của các pháp hữu vi, nếu kết hợp theo chiều thuận thì nó phát triển, và chúng ta cho là đẹp, tươi giống như dòng nước chảy thuận chiều, còn nếu bị cản thì nước bị chặn lại tạo thành thác hay tỏa ra các nơi rồi thấm xuống lòng đất; đây là quy luật của chu kỳ thành và hoại, tụ và tán của các pháp hữu vi, không gọi là sự sống. Còn sự sống mà chúng ta nói đây là cái có cảm thọ, tạo ra cảm giác, tức là có khổ, có lạc; từ khổ lạc thọ này khởi lên tham ái trong chu kỳ xúc, thọ, ái, thủ, hữu… Thọ đưa tới ái, ái đưa đến thủ, thủ đưa tới hữu…; đây là quá trình của sự sống luôn luôn diễn tiến trật tự theo quy luật tự nhiên, gọi là duyên khởi. Cây cối cũng tiếp xúc với nhau tức cũng có xúc nhưng thức không khởi lên vì không có thọ, vì bốn đại chủng tạo nên cây cối là những đại chủng không tạo nên chấp thọ (vô chấp thọ đại chủng), nên sự sống của cây cối không giống như sự sống hữu tình được, mà chỉ là sự phát triển hài hòa của các pháp hữu vi.

Yếu tố tạo nên sự sống là công năng, tức chủng tử hay gọi là tập khí. Tập khí có ba nhóm: Danh ngôn tập khí, ngã chấp tập khí và hữu chi tập khí. Danh ngôn tập khí tạo thành ký ức, ký ức này tạo thêm bản ngã, tức có một cái tự ngã xuất hiện và hoạt động, ngã này diệt thì ngã khác phát sinh; đó gọi là ngã chấp tập khí. Nhưng thật ra có một cái tự ngã liên tục, khi ngũ uẩn xuất hiện thì tự ngã thành hình, khi ngũ uẩn rã thì tự ngã chìm xuống đến khi uẩn khác hình thành thì tự ngã lại xuất hiện, cứ như thế tự ngã kéo dài từ đời này qua đời khác tạo thành hữu chi tập khí.

Trong ba loại tập khí này, nguồn gốc tạo nên sự sống là nhận thức và hành động. Nhận thức chính là phân biệt tập khí, nghĩa là hằng ngày, chúng ta nhận thức rồi phân biệt tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng rồi cấu trúc lại thành con người, thành cây, thành lá… sau đó lưu vào bộ nhớ và trở thành tập khí tồn tại dưới dạng chủng tử. Bộ nhớ này chính là thức thứ tám. Còn hành động tức là nghiệp cảm. Nghiệp là hành động do tham sân si, ý muốn bất thiện khởi lên thúc đẩy. Tất cả những hành động như vậy lưu lại thành tập khí. Rồi những tập khí này tạo thành dòng sống tiếp nối liên tục từ đời này sang đời khác do được chấp trì bởi thức thứ tám. Như vậy, ngoài sáu thức có một bản chất tạo thành sự sống. Bản chất này là do chúng ta tạo ra chứ không phải ai ban cho. Bản chất này ô nhiễm hay thanh tịnh là tùy theo chúng ta tạo ra những tập khí tốt hay xấu; do vậy, đời sống khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc vào chủng tử mà chúng ta tạo ra, chứ không có một thứ quyền năng hay Thượng đế nào có thể can thiệp được.

Quay trở lại danh sắc, bốn thức ăn này làm cho danh sắc phát triển tức là trong danh sắc đã có thức rồi nhưng thức phát triển chưa đầy đủ vì căn phát triển chưa đầy đủ. Căn càng ngày càng phát triển thì thức ăn cũng ngày càng phát triển nhưng cũng thuộc trong bốn loại thức ăn này. Từ danh sắc phát triển dần cho đến khi thành hình đầy đủ một hữu tình thì bốn loại thức ăn cũng theo đó mà phát triển và tùy theo cấp bực.

Đoạn thực chỉ hữu dụng ở Dục giới và Sắc giới chỉ có xúc thực. Xúc và ý tư thực tuy phổ biến cả ba giới nhưng do y trên thức mà hoạt động nên tùy theo thức mà có mặt hay không. Nói chung, cả ba cõi đều có xúc thực, nhưng ở Sắc giới xúc thực nổi bật nhất, vì trong Sắc giới có Tứ thiền và xúc trong Tứ thiền có hỷ, lạc và xả. Khi lên Vô sắc giới, xúc ở đây rất vi tế, chỉ có xả tức xả thọ mà thôi và thức (thức thực), trong đó có ý tư thực. Ba loại thức ăn trước từ thức ăn vật chất là đoạn thực, xúc thực cho đến ý tư thực đều có tác dụng phát triển các căn và đồng thời làm tăng trưởng thức, tức thức được nuôi lớn. Thí dụ về nhãn thức, nếu hằng ngày chúng ta ăn những chất bổ dưỡng (đoạn thực), đồng thời mắt được nhìn những cảnh sắc hài hòa thì tạo ra thọ tăng ích (thuận ích xúc – xúc thực), lại luôn luôn có hy vọng được tồn tại (ý tư thực), tất cả những thức ăn này làm cho thức con mắt phát triển tức hệ thống thần kinh thị giác càng trở nên tinh tế hơn. Và khi thức phát triển thì cơ bản nhất là tham ái phát triển, chính tham ái tạo ý muốn đi tìm thức ăn để duy trì sự sống tức duy trì sự tồn tại của các căn. Đây gọi là mối quan hệ hỗ tương lẫn nhau giữa bốn loại thức ăn. Ba loại thức ăn trên làm tăng trưởng thức, mà thức tăng trưởng thì tham ái tăng trưởng, tức tham, sân, si tăng trưởng và chính nó lại trở thành thức ăn.

Chúng sanh cần thức ăn cũng giống như chiếc xe cần năng lượng chất đốt. Thức ăn tạo thành ba cõi và dẫn chúng sanh đi lòng vòng trong sanh tử, chỉ khi nào năng lượng chất đốt không còn thì xe ngừng chạy. Nói cách khác là trong thế giới vật chất, chúng ta bị khống chế bởi thân thể vật lý, đi đứng nằm ngồi đều bị cản trở bởi mưa gió, nhiệt độ nóng lạnh…, lúc thì cảm thấy khỏe, lúc thì cảm thấy mệt mỏi; đây là những chi phối căn bản không ai thoát được, ngay cả bậc Thánh nếu còn thân thể thì cũng còn bị chi phối bởi thân xác đó. Càng lên cao thì thân thể không còn tác dụng gì đối với tâm lý, như không có đau ốm, như người nhập định cao thì dù uống phải chất kịch độc vẫn tỉnh táo bình thường không hề thấy đau đớn, vì đã dùng sức thiền định trấn áp; đây gọi là công phu hàm dưỡng. Công phu hàm dưỡng càng cao thì sức khống chế vật chất càng cao nên có thể vượt qua mọi trở ngại vật lý như đói khát, mưa gió, đau bệnh, nhưng khi ra khỏi thiền định, trở lại thân thể bình thường thì vẫn phải chịu tác động của quy luật của vật lý như thường. Song, ngay khi vượt qua khỏi quy luật vật lý bằng tâm lý vẫn có những hạn chế của nó. Vì là pháp hữu vi, nên ngoài sắc, yếu tố tâm vẫn chịu quy luật của pháp hữu vi; đó là quy luật sanh diệt. Vật chất sanh diệt, tâm cũng sanh diệt, chỉ có điều vật chất sanh diệt chúng ta nhìn thấy rõ. Nhìn rõ không có nghĩa là chúng ta nhìn thấy từng sát-na, mà chúng ta nhìn thấy nhờ suy luận, như nhìn thấy hoa đang tươi rồi vài ngày sau bị héo thì biết rằng vật chất có sanh diệt, vì có sanh diệt nên hoa héo từ từ chứ không phải đột nhiên mà héo.

Dòng sanh diệt cứ liên tục từ ngày này qua ngày khác, mọi vật tan rã từ từ. Mọi thứ chúng ta nhìn thấy đều như vậy, có điều chúng ta không thể thấy hết nên cho rằng là biến cố đột nhiên, nhưng không có cái gì là đột nhiên hết, mà là chuyển động từ từ. Quy luật sanh diệt của vật chất có thể thấy được, còn quy luật sanh diệt của tinh thần không thể thấy được nhưng nếu chúng ta tập định tâm thì có thể biết được. Chính dòng sanh diệt tạo nên quá trình kết hợp và tan rã. Chuỗi sanh diệt khi hình thành thì kết hợp với nhau tạo thành khối lớn, đến cái biên độ của nó thì bắt đầu rã. Tâm thức cũng vậy nhưng hoạt động của tâm thức không thô như vật chất nên chúng ta thấy nó lâu rã hơn. Trong trạng thái thiền định thì tuổi thọ kéo dài hơn, vì trong định, tuổi thọ không còn bị chi phối bởi sắc thân nữa. Những người nhập Diệt tận định sống ngoài một kiếp; trường hợp này không còn bị chi phối của quy luật vật lý, nên hoàn toàn không cần thức ăn nữa, lúc này có thể kéo dài tuổi thọ đến vô lượng kiếp, nếu không cho dù có lên đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng là cõi trời cao nhất, sống mấy vạn năm, mấy triệu năm rồi cũng chìm xuống, hoặc rớt từ cõi trời này đến cõi trời khác, hoặc là rớt thẳng xuống Dục giới là thế giới vật chất này, rồi bắt đầu tu dưỡng trở lại.

Sự hình thành ba cõi dựa trên nhiều yếu tố, một trong những yếu tố không thể thiếu được là thức ăn. Thức ăn vật chất tạo thành Dục giới. Thế giới vật chất gồm năm thứ gọi là ngũ dục vọng. Năm yếu tố này tạo ra năm sợi dây ràng buộc thế giới vật chất. Cao hơn một bậc là loại thức ăn hỷ lạc của thiền định. Thức ăn bằng cảm thọ (hỷ lạc) này càng ngày càng tinh vi cho đến Sắc giới và Vô sắc giới. Lên cao nhất chỉ còn lại hai yếu tố tưởng và thọ. Nói chung khi lên cao cảm thọ tinh vi, tế nhị và kéo dài hơn, cuối cùng chỉ còn lại thức là tầng Diệt tận Định. Sau rốt, thức ăn thức cũng không còn nữa và nhập Niết-bàn; đó là cấp bậc của các vị A-la-hán.

Thức ăn nào cũng có biên độ và giới hạn của nó, vượt qua cái biên độ này thì không còn tác dụng nên người nhập thiền ăn bằng cảm thọ hỷ lạc nhưng đến mức nào đó cảm thọ hết thì chìm xuống, nghĩa là, vượt qua mức đó thì trở lại sắc thân bình thường cũng cần ăn, cần thở…, tức là từ trạng thái cao nhất của cõi cao nhất rồi chìm xuống các cõi thấp, trở lại Dục giới, từ đó tạo thành khái niệm luân hồi. Nói chung cảm thọ này dựa trên cơ bản nhất là phần vật chất, phần cơ thể và tạo thành hỷ lạc cao hay thấp là tùy theo. Chỉ khi nào chúng ta không còn bị khống chế bởi thức ăn nữa thì lúc đó mới vượt ra ngoài tam giới.

Tóm lại, bốn loại thức ăn gồm hai loại thế gian và xuất thế gian. Nghĩa thông thường của hai loại thức ăn: thức ăn cho thân thể và thức ăn cho tinh thần, ai cũng hiểu được, đơn giản như người ta nói rằng, con người ngoài thức ăn là bánh mì còn có linh hồn nữa. Nhưng trong lời dạy của đức Phật, chữ thức ăn ở đây được sắp đặt có một trật tự theo hệ thống từ thấp lên cao, từ thức ăn vật chất cho đến thức ăn tinh thần mà thuần túy là thức. Bốn loại thực phẩm là những dưỡng chất nuôi dưỡng cơ thể, duy trì sự sống hữu tình và dẫn đến tái sanh, làm cho chúng ta trôi lăn mãi trong vòng luân hồi sanh tử khổ. Nói cách khác, một trong những yếu tố tạo nên luân hồi ba cõi là thức ăn; dựa vào các thức ăn này, người ta có thể hình dung những cấp bậc của thế giới, cấp bậc tồn tại của hiện hữu mỗi chúng sanh, Phật giáo gọi là lý thuyết ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).

Liên quan đến vấn đề thức ăn, trong kinh có một câu chuyện như sau:

Một gia đình nọ có hai bố mẹ và một cậu quý tử. Hai vợ chồng này mang đứa con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ cùng chết đói. Bấy giờ, hai người bố mẹ cùng bàn với nhau rằng, thay vì, cả ba cùng chết thì chi bằng nên ăn thịt đứa con để giữ được mạng sống, sau này rời khỏi sa mạc sẽ lại sanh đứa khác. Và thế là họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa đi vừa khóc vì quá đau xót.

Đây là một bi kịch của cuộc sống chúng sanh. Để có được một đời sống an lạc thật sự, chúng ta cần phải tu tập để phát triển khả năng tâm linh của mình. Chúng ta muốn sự sống của mình ngày càng tiến hóa thì trước hết cần phải biết lựa chọn và thay đổi, bắt đầu từ vấn đề thức ăn, vì sự sống chúng ta luôn luôn cần dưỡng chất mới có thể tồn tại và phát triển.

Phật dạy: “Nhứt thiết chúng sanh giai y thực trụ. – Tất cả chúng sanh đều dựa nơi thức ăn mà tồn tại”. Tất cả mọi loài, chúng sanh trong ba cõi, từ cõi trời cao nhất đến cõi thấp nhất đều nhờ thức ăn mà sống. Theo tiến hóa luận của Phật giáo, chúng sanh tùy thuộc vào thức ăn mà tiến hóa. Mọi thứ vật chất đều tham gia vào quá trình tiến hóa và từ một sinh vật rất nhỏ đến một sinh vật lớn do kết nạp thức ăn mà thay đổi từ từ, do thức ăn mà có thể tiến hóa hay bị thoái hóa. Chúng ta tu tập cũng giống như người đi vào rừng, hay như đôi vợ chồng nọ đi trong sa mạc, nếu muốn vượt qua sa mạc nóng bỏng mà không phải ăn thịt con trai mình thì chúng ta cần phải có một quá trình tu dưỡng, phải huấn luyện khả năng mắt, tai, mũi, lưỡi… ngày càng tinh vi hơn.

Chúng ta tu tập mà trước hết phải lựa chọn thức ăn vì đây là quy luật quan hệ của các pháp hữu vi. Quy luật này là quy luật Duyên khởi, dù Phật có ra đời hay không thì pháp hữu vi vẫn như vậy, không ai có thể thay đổi được. Chỉ khi nào chúng ta giải thoát khỏi các pháp hữu vi, vượt ra ngoài sự khống chế của nó thì mới có thể làm chủ được mọi thứ.

Bốn loại thức ăn này giống như củi, còn sự sống thì giống như ngọn lửa (sanh tử). Sở dĩ, ngọn lửa này cháy mãi, cháy liên tục từ kiếp này sang kiếp khác là do chúng ta cứ đốt hết củi này rồi đốt tiếp đến củi khác mà không biết dừng lại. Vì vậy, muốn cho ngọn lửa (sanh tử) này tắt hẳn tức chỉ hết một giai đoạn sống này thôi là chấm dứt, là vào Niết-bàn, thì chúng ta phải làm thế nào để chỉ đốt hết số củi thức ăn hiện tại mà thôi.

Chúng ta biết rằng, có một thức thứ tám duy trì sự tồn tại và phát triển sự sống và sự sống chúng ta tiến hóa hay không là tùy thuộc vào nhận thức của chúng ta. Nghĩa là, chúng ta có thể chuyển thức thành trí để thay đổi cả thân tâm và vũ trụ này. Muốn được như vậy, chúng ta nhứt thiết phải tu tập tinh chuyên Giới-Định-Huệ mới có thể thay đổi thức thứ tám ngày càng tinh vi hơn cho đến khi hoàn hảo.

Đức Phật dạy: “Trong đời sống hằng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác.” Và do vậy, chúng ta phải giải thoát khỏi bốn loại thức ăn này như lời đức Phật: “Bốn loại thức ăn là cái đáng nhàm tởm, các ngươi phải nhàm chán thức ăn.”[1]

T.S.


[1] Bài đăng trong Tuệ Sỹ Văn Tuyển, tập 1 – Tiểu luận Phật học, Hạnh Viên sưu tuyển, Hương Tích ấn hành 2019, 2021.

Viết bình luận:

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *